REST API không còn là khái niệm xa lạ với tất cả anh em dev từ frontend tới backend. Tuy nhiên để hiểu rõ và làm đúng các chỉ dẫn tiêu chuẩn (convention) của REST thì có thể nhiều bạn vẫn chưa biết. Vì thế trong bài viết này mình sẽ chia sẻ các convention này nhé.
REST API (còn được biết với tên gọi RESTful API) là một giao diện lập trình ứng dụng (API) mà tuân thủ các ràng buộc và quy ước kiến trúc REST được sử dụng trong việc giao tiếp giữa client và server. REST là viết tắt của REpresentational State Transfer, nó được tạo ra bởi nhà khoa học máy tính Roy Fielding.
Rest API – Giao tiếp client và server
REST API thường vẫn sử dụng giao thức HTTP/1 kèm theo các định nghĩa trước đó mà cả client và server cần tuân thủ. Ví dụ server cung cấp một API lấy số dư của một tài khoản, phương thức là GET, cần có Authorization header, response sẽ là đoạn text có phần đầu là account number, phần sau là số dư.
À cái thời trả về text như vậy qua rồi, hiện các REST API dùng JSON phổ biến hơn. Một ít có thể vẫn còn dùng XML.
Có thể bạn sẽ quan tâm: Giao thức HTTP/1 và HTTP/2
API (Application Programming Interface) dịch ra là giao diện lập trình ứng dụng. Thật ra cái giao diện này không phải cho người dùng cuối mà dành cho các nhà phát triển (developer). Đúng hơn thì nó là cái “bề mặt” thôi, chỉ thấy được phần khai báo (tên, tham số, kiểu trả về), bộ đồ lòng body thì không biết. “Biết mặt không biết lòng” chính là API.
REST (REpresentational State Transfer) nghĩa là một đại diện cho sự chuyển đổi dữ liệu. Gì vậy trời!! Nghĩa là vầy, trong kiến trúc này client và server hoàn toàn độc lập, chúng không biết gì về nhau. Mỗi một request REST API đều không mang theo trạng thái trước đó (stateless). Như vậy để đôi bên trao đổi state, chúng sẽ buộc thông qua các resources. Các resource này chính là phần đại diện cho sự thay đổi dữ liệu.
REpresentational State Transfer
Như đã đề cập ở trên, để trao đổi state chúng sẽ cần giao tiếp resource thông qua việc gởi các request response thông qua HTTP/1. Cụ thể việc giao tiếp này là thế nào thì chúng cần chỉ định các method tương ứng bao gồm:
Nếu bạn từng nghe qua CRUD APIs thì chúng đại diện cho Create, Read, Update và Delete một resource nào đó.
Hãy nhớ rằng REST API là stateless. Mỗi một request không hề biết bất kỳ thông tin gì trước đó. Khác với khi chúng ta truy cập web, trình duyệt sẽ có session và cookie để hỗ trợ phân biệt request đấy là của ai, thông tin trước đó là gì.
Trong REST, nếu một request cần xác thực quyền truy cập, chúng sẽ phải dùng thêm thông tin trong header. Ví dụ như thông tin Authorization sẽ mang theo một user token. Hiện có 3 cơ chế Authentication chính:
Ngoài ra Header còn giúp client chỉ định được loại content cần trả về từ server – content type. Việc này được thực hiện thông qua phần Accept trong header. Giá trị của nó thường là MIME type:
Ví dụ request lấy danh sách bài viết:
GET /v1/posts
Accept: application/json
Response trong REST API sẽ bao gồm một status code quy định cụ thể từng trường hơp. Các bạn có thể xem full danh sách tại đây: https://developer.mozilla.org/en-US/docs/Web/HTTP/Status
Ý nghĩa status code
Một số status phổ biến:
Thông thường REST API sẽ có version như /v1, /v2 để hỗ trợ các phiên bản dữ liệu cũ hơn. Việc này đặc biệt quan trọng khi chúng ta nâng cấp API lên các version cao hơn, sự nâng cấp này có thể khác biệt rất to lớn: thay đổi URL, cách thức xác thực người dùng hoặc cả resource name và cấu trúc của nó.
Mặc dù các ràng buộc và quy ước trên các nhà phát triển không cần tuân thủ. Tuy nhiên nếu làm “đúng”, chúng sẽ mang lại rất nhiều lợi ích.
Mình đã từng thấy rất nhiều REST API thiết kế viết đại khái như sau:
Những REST API này vẫn hoạt động tốt, không vấn đề gì cả!! Có điều chúng không theo convention mà thôi. Việc này dẫn đến một rắc rối cho người làm document (hoặc chính người thiết kế ra) phải rà soát lại cái URL có chính xác không. Phía sử dụng API cũng phải thiết lập một danh sách API đúng như vậy luôn.
Các bạn hãy so sánh với thiết kế URL như sau:
Cách thiết kế này các bạn sẽ thấy rằng có một nguyên tắc rất rõ ràng sử dụng các method request để nói lên được nhiệm vụ của API. Phần URI có thể giống nhau, không cần cứ phải chứa các động từ như: create, get, update, delete nữa. Resource name sẽ ở dạng số nhiều (plural).
Một số ví dụ khác:
Nguồn: 200lab.io